Từ sau đại dịch Covid-19, Bệnh viện Bạch Mai bắt đầu phát hiện và điều trị cho các bệnh nhân bị nhiễm nấm đen. Cụ thể, năm 2022 là 20 ca, năm 2023 là 30 ca và tính đến hết quý 3 năm 2024, bệnh viện đã tiếp nhận gần 40 ca.
Số lượng bệnh nhân có chiều hướng gia tăng với bệnh cảnh hết sức phức tạp. Việc phát hiện, chẩn đoán và điều trị còn nhiều thách thức, khó khăn.
Nấm đen làm hoại tử não, xoang
Bệnh nhân N.Q.T (69 tuổi, quê Hải Dương) có tiền sử bệnh đái tháo đường, huyết áp cao bị đau nửa mặt, đau răng và nhổ răng số 6 từ tháng 6/2024.
Từ đó đến khi phát hiện ra bệnh nhiễm nấm đen, bệnh nhân liên tục sốt cao, đau nhức mặt, hàm, đau đầu, đã đi khám và điều trị các chuyên khoa răng hàm mặt, tai mũi họng, thần kinh tại nhiều bệnh viện lớn.
Đến ngày 30/9/2024, bệnh nhân nhập viện Trung tâm Bệnh Nhiệt đới - Bệnh viện Bạch Mai trong tình trạng sốt cao, đau đầu, đau vùng mặt bên phải và có áp xe phổi kèm theo.
Tại Trung tâm Bệnh Nhiệt đới, bệnh nhân được chỉ định làm các xét nghiệm cận lâm sàng, theo dõi từng chỉ số và xác định bị nhiễm nấm đen gây tổn thương nghiêm trọng và hoại tử một phần não và vùng xoang mặt.
Như vậy, sau hơn 3 tháng kể từ khi xuất hiện triệu chứng, chỉ khi bệnh nhân đến Trung tâm Bệnh Nhiệt đới - Bệnh viện Bạch Mai mới được chẩn đoán đúng bệnh.
Nấm đen đã thâm nhập sâu vào phổi, các xoang mặt và não, gây áp xe phổi, hoại tử một phần não và xoang mặt. Sau khi đưa ra hội chẩn toàn viện, bệnh nhân đã được các bác sĩ phẫu thuật thần kinh và phẫu thuật tai mũi họng kết hợp mổ để cắt bỏ phần mô hoại tử ở não và xoang.
Hiện nay, bệnh nhân vẫn đang được theo dõi và tiếp tục điều trị tích cực tại Trung tâm Bệnh Nhiệt đới - Bệnh viện Bạch Mai.
Bệnh nấm đen là gì?
Theo PGS.TS Đỗ Duy Cường - Giám đốc Trung tâm Bệnh Nhiệt đới, Bệnh viện Bạch Mai, bệnh nhiễm nấm đen (black fungus) hay còn gọi là Mucormycosis là một nhiễm trùng nặng do nấm xâm nhập vào các mô sâu trong cơ thể gây tổn thương nhồi máu và hoại tử mô, tạo thành bệnh cảnh phá hủy xoang, gây áp xe não, áp xe phổi...
Nấm đen thường phát triển vào mùa hè thu, tạo ra hàng triệu bào tử bay lơ lửng trong không khí và phát triển trong môi trường ẩm thấp, yếm khí, cây cối mục nát, môi trường có phân gia súc.
Nấm đen đặc biệt nguy hiểm ở bệnh nhân mắc đái tháo đường, nhất là khi bệnh nhân không được điều trị đầy đủ.
PGS.TS Đỗ Duy Cường thông tin, các bào tử nấm đen có sẵn trong không khí, trên các bề mặt mà ta tiếp xúc, đặc biệt là những chỗ ẩm ướt, đất bùn, khu trang trại có phân gia súc, gỗ, cây lá, hoa quả thối rữa, ẩm mục.
Nấm lây truyền vào cơ thể người qua 2 con đường: Qua đường thở, hít phải các bào tử nấm đen và qua đường tiếp xúc vết thương hở như vết đứt tay, vết xước sâu, vết cào, các vết thương khác... Nấm đen không lây truyền từ người sang người.
Nấm đen có thể thâm nhập vào phổi, vào các xoang hàm mặt và lây lan lên mắt, não, hoặc thâm nhập vào niêm mạc đường tiêu hóa. Nghiêm trọng hơn, nấm đen còn thâm nhập vào đường máu, ảnh hưởng đến các cơ quan đích như não, tim, lách. Các cơ quan bị nấm đen thâm nhập có khả năng bị tắc mạch hoại tử và bị phá hủy nhanh chóng.
Những người có nguy cơ cao nhiễm nấm đen
PGS.TS Đỗ Duy Cường cho biết, đối tượng nguy cơ cao dễ mắc bệnh là những bệnh nhân có hệ miễn dịch yếu.
Đó là bệnh nhân đái tháo đường type 2, nhiễm toan Ceton khi nấm đen vào cơ thể sẽ khó chống đỡ. Hơn nữa, nấm đen ưa môi trường đường, phát triển mạnh từ đường, nên những ai có đường huyết cao, nấm dễ sinh sôi phát triển.
Bệnh nhân nhiễm HIV hoặc đã từng bị nhiễm Covid-19 có biến chứng; Bệnh nhân ung thư, ghép tạng, ghép tế bào gốc; Bệnh nhân sử dụng nhóm thuốc Corticosteroid trong thời gian dài; Bệnh nhân bị chấn thương, phẫu thuật, bỏng; Trẻ sinh non, suy dinh dưỡng, nhẹ cân; Bệnh nhân giảm bạch cầu trung tính; Người tiêm chích ma túy... cũng dễ bị nhiễm nấm và các bệnh truyền nhiễm khác hơn là những người khỏe mạnh bình thường.
Những triệu chứng khi nhiễm nấm đen
Theo PGS.TS Đỗ Duy Cường, với những nhóm đối tượng có nguy cơ cao bị nhiễm nấm đen, cần chú ý các triệu chứng: Đau đầu, đau các xoang hàm mặt, sưng một bên mặt, đau sưng nề một bên mắt, mất khứu giác, sốt, ho và khó thở, đau bụng, buồn nôn, xuất huyết dạ dày.
Bệnh nhân có những tổn thương màu đen đặc trưng trên da, xoang, mắt kèm phù nề tấy đỏ mô xung quanh. Đây là bệnh lý mới nổi tại Việt Nam sau Covid-19, do đó dễ bị bỏ sót hoặc nhầm lẫn với nhiễm trùng do các vi khuẩn khác. Bệnh đòi hỏi bác sĩ khám ban đầu phải có nhiều kinh nghiệm trong nhận biết tổn thương, chẩn đoán và điều trị nấm đen.
Để phòng bệnh nhiễm nấm đen, người dân nên đeo khẩu trang ở nơi công cộng, công trường, nông trường, nông trại.
Chú ý môi trường vệ sinh những nơi bão lũ, thiên tai, những nơi có phân gia súc, hoa màu, cây cối bị mục ải; phòng hộ ủng đi chân, găng tay, quần áo bảo hộ khi tham gia lao động trong môi trường nêu trên.
Vệ sinh nhà cửa và thân thể sạch sẽ. Môi trường sống và làm việc cần thông thoáng, tránh tù hãm, tối tăm, ẩm thấp.
Mỗi người cần kiểm soát đường máu, kiểm soát tốt các bệnh nền. Đối với nhóm nguy cơ cao với hệ miễn dịch bị suy yếu càng cần nâng cao phòng bệnh và khi thấy một trong những dấu hiệu của bệnh cần đi kiểm tra tại các bệnh viện lớn có đủ năng lực chẩn đoán và điều trị.
Tại thực tế điều trị tại Bệnh viện Bạch Mai cho thấy, nhiều bệnh nhân sau khi đi thăm khám, điều trị nhiều nơi mà không phát hiện ra bệnh, khi vào đến Trung tâm Bệnh Nhiệt đới đã ở tình trạng nặng, nấm đã làm tổn thương não, phổi, mắt, vùng xoang mặt, niêm mạc đường tiêu hóa...
Có trường hợp nhập viện khi một bên mắt, phần xoang mặt và một phần não bị hoại tử, nhiễm trùng, sốt cao, bội nhiễm khiến việc điều trị rất khó khăn và tốn kém, di chứng có thể nặng nề, tiên lượng sự sống mong manh. Nhiều bệnh nhân phải hội chẩn toàn viện, kết hợp chẩn đoán và điều trị đa chuyên khoa.
Thậm chí có bệnh nhân phải phẫu thuật mắt (loại bỏ con mắt bị hoại tử), phẫu thuật thần kinh (cắt phần não hoại tử), phẫu thuật răng hàm mặt (cắt bỏ phần hoại tử xương hàm), phẫu thuật lồng ngực (xử lý áp xe phổi) kết hợp điều trị nội khoa.
Quá trình nằm viện dài ngày có khi tới vài tháng và nguy cơ tái phát dai dẳng, chi phí điều trị hết sức tốn kém, đòi hỏi các y bác sĩ phải giàu kinh nghiệm và đưa ra những phác đồ tối ưu cho từng cá thể bệnh nhân.